NGƯƠI LÁI ĐÒ SÔNG ĐẢ NGUYEN TUÂNvề tác giả Nguyễn Tuân, xem phần Tiểu dẫn bài Chữ người tử tù, SGK Ngữ văn 11, tập một.(Trích)KẾT QUẢ CẨN ĐẠTCảm nhận được vẻ đẹp đa dạng của con sông Đà vừa "hung bạo" vừa "trữ tình" cùng hình ảnh giản dị mà kì vĩ của người lái đò trên dòng sông ấy. Từ đó, thấy được tình yêu, sự đắm say cúa Nguyễn Tuân trước thiên nhiên và con người lao động ở miền Tây Bắc của Tổ quốc.Hiểu và yêu mến tài năng nghệ thuật độc đáo cúa nhà văn được thể hiện trên những trang tuỳ bút.TIỂU DẤNNgười lái đò Sông Đà là bài tuỳ bút được in trong tập Sông Đà (1960) của Nguyễn Tuân.Sông Đà là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tói miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi, không chỉ để thoả mãn cái thú tìm đến nhữngYniền đất lạ cho thoả niềm khát khao “xê dịch”, mà chủ yếu để tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên cùng “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn của những con người lao động và chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng đó. Vì thế, Sông Đà nói chung và bài tuỳ bút Người lái đò Sông Đà nói riêng cho ta nhận ra diện mạo của một nhà vãn Nguyễn Tuân mới mẻ, khát khao được hoà nhịp với đất nước và cuộc đời này, không giống với Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám, con người chỉ muốn xê dịch cho khuây cảm giác “thiếu quê hương”.Sông Đà nói chung và Người lái đò Sông Đà nói riêng còn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân : uyên bác, tài hoa, không quản nhọc nhằn để cô gắng khai thác kho cảm giác và liên tường phong phú, bộn bề, nhằm tìm cho ra những chữ nghĩa xác đáng nhất, có khả năng làm lay động người đọc nhiều nhất.VAN BAN"Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông”Wladyslaw Broniewski11’"Chúng thnỷ giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu "Wladyslaw Bronieivski (Vla-đi-xláp Brô-ni-ép-xki, 1897 - 1962): nhà thơ cách mạng Ba Lan. Chúng thuỷ giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lim : Mọi dòng sông đều chảy về hướng đông - Chỉ có sòng Đà chảy theo hướng bắc (thơ Nguyễn Quang Bích). Đúng ngọ : giữa trưa. Đòi nợ xuýt: đòi người không mắc nợ mình một cách vô lí.(Lược đoạn đầu : Tác giá trình bày mục đích chuyến đi thực tế Tây Bắc và sông Dà của mình chứ yếu là để tìm hiểu những con người ở đây mà ông gọi "thứ vàng mười đã qua thử lửa" của cách mạng và kháng chiến, hiện nay đang góp phần vào việc kiến thiết Tây Bắc. Tiếp đó, tác giả giới thiệu tài trí tuyệt vời của những người lái đò sông Đà trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh và liệt kê một loạt con thác sông Dà từ Vạn Yên về xuôi, trong đó có những con thác vô cùng "độc dữ, nham hiểm”. Đáng sợ nhất là những cái hút nước "xoáy tít đáy” giữa lòng sông từng dìm xuống và xé tan tác những bè gỗ, nhữngcon thuyền vôýbị nó lôi tuột xuống...)Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ13’ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt14’ bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suấtKhinh suất: không thận trọng. Tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sôngKhuỷnh sông: chỗ sông gấp khúc, uốn quanh lại. Dưới. Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút Sông Đà - từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre-plongéeContre-plongée (tiếng Pháp đọc là công-tơ-rơ pỉông-giê): thuật ngữ điện ảnh, có nghĩa là quay ngược ống kính lên mà ghi hình. Lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoáy tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn.Cuộc sống của người lái đò Sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hằng ngày vói thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một. Nhìn cái thiên nhiên ấy, có những lúc thấy nó không “thơ đời Đường” nhàn hạ, mà thấy nó chính là một cuộc đấu tranh với thiên nhiên để giành sự sống từ tay nó về tay mình. Tôi xin ghi ở đoạn này cái hình ảnh chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường Sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận Sông Đà.... Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuôngPhá tuông: phá để thoát ra. Rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xoá cả một chân tròi đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hon cả cái mặt nước chỗ này. Mặt sông rung rít lên như tuyếc-bin thuỷ điệnTuyếc-bin (phiên âm từ tiếng Pháp turbine) thuỷ điện : máy quay phát điện, quay nhờ sức nước đẩy. Nơi đáy hầm đập. Mặt sông trắng xoá càng làm bật rõ lên những hòn những tảng mới trông tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tuỳ theo sở thích tự động của đá to đá bé. Nhưng hình như Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trậnThạch trận : trận địa xếp bằng đá. Tác giả tưởng tượng đá sông Đà bày thành trận để đón đánh người lái đò. Trên sông. Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa, vào tận tuyến giữa rồi nước sóng luồng mới đánh khuýp quật vu hồiVu hồi: quay lại, đánh quật trở lại. Lại. Nếu lọt vào đây rồi mà cái thuyền du kích ấy vẫn chọc thủng được tuyến hai, thì nhiệm vụ của những boong-keBoong-ke (phiên âm từ tiếng Pháp bunker): một kiểu lô cốt kiên cố của quân Pháp, thường xây chìm. Chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thuỷ thủ ngay ở chân thác. Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối họp với đá, nước thác reo hò làm thanh việnThanh viện : khích lệ, cổ vũ bàng âm thanh. Cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt. Một hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. • Ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt11’. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chíThanh la não bạt: hai nhạc cụ bộ gõ, bằng đồng (còn gọi là phèng la, chũm choẹ) tạo âm thanh náo nhiệt, tưng bừng. Vô sở bất chí: không noi nào không đến được, không biết thế nào là cùng. Hồi lừng: dồn dập. Đòn âm: đòn ngầm. Trùng vi: vòng vây có nhiềư lóp. Ải nước: chỗ dòng nước thắt lại, chảy xiết. (Tác giả hình dung đấy như một cửa ải.) Tả ngạn
Bạn đang xem: Bài thơ người lái đò sông đà
Xem thêm: Xếp Hạng 10 Người Nặng Nhất Thế Giới Có Thể Bạn Chưa Biết, Người Nặng Nhất Thế Giới
Từ đó, hãy cắt nghĩa vì sao, trong con mắt của Nguyễn Tuân, thiênnhiên Tây Bắc quý như vàng, nhưng con người Tây Bắc mới thật xứng đáng là vàng mười của đất nước ta.Chọn phân tích một số câu văn thể hiện rõ nhất nét tài hoa về bút pháp trong cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân.G HI N H ÓNgười lái đò Sông Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nưỡc say đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ I đẹp vừa kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên, và nhất là của cpn người lao động bình dị ở miền Tây Bắc.Tác phẩm còn cho thấy công phu lao động nghệ thuật khó nhọc, cùng sự tài ■ hoa, uyên bác của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân trong việc dùng chữ nghĩa để tái tạo những kì công của tạo hoá và những kì tích lao động cúa con người.—-—.— ■ ■. .—.—.—™—3 ■ :LUYỆN TẬPTìm đọc trọn vẹn tuỳ bút Người lái đò Sông Đà.Phân tích và phát biểu cảm nghĩ về một đoạn văn khiến anh (chị) thấy yêu thích, say mê nhất trong thiên tuỳ but.