Cảm nhận đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ – Tham khảo những bài văn mẫu hay do THPT Sóc Trăng tổng hợp và biên soạn để hoàn thành tốt bài viết của mình.

Bạn đang xem: Cảm nhận tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

Đề bài: Cảm nhận đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ của Đặng Trần Côn.


Hướng dẫn làm bài cảm nhận đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

1. Phân tích đề

– Yêu cầu đề bài: từ các chi tiết, hình ảnh,… của đoạn thơ, cảm nhận về nỗi cô đơn của người chinh phụ khi phải sống trong cô đơn, buồn khổ, trong thời gian đợi chồng đi đánh giặc trở về, không có tin tức

– Phương pháp làm bài: cảm nhận

2. Các luận điểm chính cần triển khai

Luận điểm 1: Tâm trạng của người chinh phụ trong tình cảnh cô đơn, lẻ loi, ngày qua ngày mong ngóng tin chồng

Luận điểm 2: Nỗi nhớ thương dành cho chồng ở phương xa

Luận điểm 3: Những khao khát về hạnh phúc lứa đôi của người thiếu phụ

3. Lập dàn ý

Xem dàn ý chi tiết: Dàn ý cảm nhận đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

4. Sơ đồ tư duy

*

Cảm nhận đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

Bầu trời bát ngát không cùng và nỗi nhớ cũng không cùng, nhưng suy tưởng thì có hạn; người chinh phụ lại trỏ về với thực tế cuộc sống nghiệt ngã của mình. Ý thơ chuyển từ tình sang cảnh. Thiên nhiên lạnh lẽo như truyền, như ngấm cái lạnh đáng sợ vào tận tâm hồn người chinh phụ cô đơn:

Sương như búa, bổ mòn gốc liễu,

Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô.

Hình như người chinh phụ đã thấm thìa sức tàn phá ghê gớm của thời gian chờ đợi. Tuy nhiên đến câu: Sâu tường kêu vắng chuông chùa nện khơi thì không khí đã dễ chịu hơn, cũng bởi người chinh phụ chí mới thất vọng mà chưa tuyệt vọng.

Tám câu cuối là bức tranh tả cảnh ngụ tình đặc sắc nhất trong Chinh phụ ngâm:

Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc,

Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên.

Lá màn lay ngọn gió xuyên,

Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.

Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm,

Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.

Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,

Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau!

Ý thơ đi từ tinh đến cảnh rồi lại từ cảnh trở về tình, cứ dội qua dội lại như vậy nhằm thể hiện rõ tâm trạng ở đâu, lúc nào, làm gi… người chinh phụ cũng chí vò võ một mình một bóng mà thôi!

Từ thốc rất mạnh trong câu Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên báo hiệu sự chuyển sang một tâm trạng mới ở người chinh phụ. Cảnh hoa – nguyệt giao hòa khiến lòng người rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đôi. Những động từ dãi, lồng toát lên cái ý lứa dôi quấn quýt gần gũi, âu yếm nồng nàn mà vẫn tế nhị, kín đáo.

Tác giả lựa chọn và dùng từ rất kĩ, rất đắt: Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước, Sương như búa, bổ mòn gốc liễu, Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô, Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên… Đặc biệt, tác giả đã sử dụng thành công hàng loạt từ láy: eo óc, phất phơ, đằng đẵng, dằng dặc, mê mải, châu chan, thăm thẳm, đau đáu… về nhạc điệu, tác giả đã phát huy một cách tài tình nhạc điệu du dương của thể thơ song thất lục bát, giống như những đợt sóng dạt dào, diễn tả tâm trạng người chinh phụ hết nhớ lại thương, hết thương lại nhớ trong tình cảnh lẻ loi đơn chiếc.

Bằng bút pháp nghệ thuật điêu luyện, tác giả đã diễn tả được những diễn biến phong phú, tinh vi các cung bậc tình cảm của người chinh phụ. Cảnh cũng như tình được miêu tả rất phù hợp với diễn biến của tâm trạng nhân vật.

Thông qua tâm trạng đau buồn của người chinh phụ đang sống trong tình cảnh lẻ loi vì chồng phải tham gia vào những cuộc tranh giành quyền lực của các vua chúa, tác giả đã đề cao hạnh phúc lứa đôi và thể hiện tinh thần phản kháng đối với chiến tranh phi nghĩa. Tác phẩm Chinh phụ ngâm đã toát lên tư tưởng chủ đạo trong văn chương;một thời, đó là tư tưởng đòi quyền sống quyền được hưởng hạnh phúc rất chính đáng của con người.

Bài tham khảo 3

Trong xã hội phong kiến, không số phận nào khổ bằng số phận người phụ nữ. Có những người may mắn được vào cung làm phi tần, cung nữ sống trong cảnh nhà lầu gác tía, cung quế, thẩm khuê nhưng vui hay không thì chỉ có họ mới hiểu, nhất là khi vua chúa ruồng bỏ. Hay cũng có những người không phải sống kiếp chồng chung, họ được sống với người mình yêu thương, một vợ một chồng nhưng thời buổi binh đao loạn lạc, chồng bị bắt đi lính thì họ cũng đâu có hạnh phúc gì. Tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc tiêu biểu là đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ là minh chứng cho những nỗi buồn, nỗi nhớ nhung sầu muộn của người phụ nữ có chồng đi lính.

Mười sáu câu thơ đầu thể hiện tâm trạng buồn bã, tủi hờn của người chinh phu. Khi người yêu thương của mình phải đi đánh trận vì một những cuộc chiến tranh vô nghĩa, người vợ ở nhà không thể ngừng lo lắng cho số phận của chồng mình, buồn rồi nhớ, nhớ rồi thương người con gái không thiết làm gì nữa:

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,

Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.

Ngoài rèm thước chẳng mách tin,

Trong rèm dường đã có đèn biết chăng ?

Đèn có biết, dường bằng chẳng biết,

Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.

Buồn rầu nói chẳng nên lời,

Hoa đèn kia với bóng người khá thương !”

Qua từng câu thơ ta có thể cảm nhận được hình bóng của người chinh phu đang chậm rãi thả từng bước chân trên hiên vắng, thả như gieo xuống, buông thõng mình mà buồn bã. Hết dạo lại ngồi trong rèm thưa mong con chim thước mách tin về chồng mình. Nhưng ngóng trông vô ích nào có biết được tin tức phu quân nơi trận mạc. Trong ngôi nhà nhỏ, trong bức rèm thưa chỉ có một mình nàng với cây đèn. Nó thức cùng nàng đấy nhưng nó có hiểu được lòng nàng không. Câu hỏi tu từ vang lên nghe sao buồn đau đáu. Chỉ có một mình nàng một niềm bi thiết mà thôi. Hoa đèn kia như thức cùng bóng người.

Gà eo óc gáy sương năm trống,

Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.

Khắc giờ đằng đẵng như niên,

Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa.

Hương gượng đốt, hồn đà mê mải,

Gương gượng soi, lệ lại chứa chan.

Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,

Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.

Nàng thức cả năm canh, gà “eo óc” gát báo canh năm, những bông hòe phất phơ nhưng cũng rủ bóng. Cảnh vật nhuốm màu tâm trạng của người chinh phụ. Trước nỗi nhớ chồng mỗi khắc trôi qua mà tựa như một năm, thời gian trôi càng chậm thì mối sầu trong lòng nàng lại càng dày đặc hướng về phía biển xa. Nàng buồn nàng gượng đốt hương, gương cầm lên cũng chỉ gượng soi, nhìn mình trông gương tủi phận mà mắt lại lệ chan. Buồn rồi nàng lại gảy đàn nhưng lại sợ dây đứt báo điềm gở.

Người chinh phu nhớ chồng không buồn làm gì, ngay cả đến việc soi gương cũng chỉ gượng gạo cho xong. Lòng nàng chỉ một mối tơ vương hướng đến người chồng của mình nơi trận mạc:

“Lòng này gửi gió đông có tiện,

Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.

Non Yên dù chẳng tới miền,

Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.

Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,

Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.

Cảnh buồn người thiết tha lòng,

Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun”

Nàng muốn gửi tấm lòng vàng của mình cho gió đông để mang tới chàng. Dẫu biết Non Yên cũng chẳng tới miền nhưng nàng vẫn muốn gửi. Nỗi nhớ chồng thăm thẳm như trời cao vậy. Nỗi nhớ ấy luôn đau đáu trong lòng người chinh phụ. Người buồn cảnh cũng buồn cành cây ướt sương đêm tiếng mưa phùn rơi như người chinh phụ đêm qua với giọt nước mắt tràn mi.

Qua đoạn trích ta có thể cảm nhận được nỗi lòng của người chinh phụ. Đó là nỗi buồn thương người chồng nơi trận mạc không biết sống chết thế nào. Một mình nàng lẻ bóng, chăn đơn gối chiếc mà cô đơn một thì lo lắng nhớ thương chàng tới mười. Đồng thời qua đây nhà thơ cũng muốn phản ánh hiện thực xã hội với những cuộc chiến tranh vô nghĩa đã chia lìa những đôi vợ chồng.

Tham khảoPhân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ 

Bài tham khảo 4

Thế kỷ XVIII là thời kì mà chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến diễn ra liên miên và phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra khắp nơi, nhà nhà sống trong cảnh loạn lạc, khói lửa, đâu đâu cũng thấy cảnh lầm than, tang tóc. Giữa hoàn cảnh ấy, Đặng Trần Côn đã sáng tác “Chinh phụ ngâm” nhằm phản ánh những nỗi đau của người phụ nữ trong chiến tranh để cất lên tiếng nói của con người thời đại, tiếng nói oán ghét chiến tranh phi nghĩa. Tác phẩm đã được dịch ra chữ Nôm, bản dịch này được nhiều người cho là của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm. Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” từ câu 193 đến câu 228 miêu tả những cung bậc và sắc thái khác nhau của nỗi cô đơn, buồn khổ trong tâm trạng người chinh phụ đang khao khát được sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi.

Mở đầu đoạn trích, tác giả đã vẽ nên tâm trạng của người chinh phụ trong tình cảnh cô đơn, lẻ loi, ngày qua ngày mong ngóng tin chồng:

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,

Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.

Ngoài rèm thước chẳng mách tin,

Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?”

Giữa không gian vắng lặng, người chinh phụ dạo bước bên hiên nhà. Nàng gieo từng bước chân khẽ khàng, dạo đi dạo lại chờ ngóng tin chồng. Nàng cứ buông rèm rồi lại kéo rèm, mong ngóng một dáng hình sẽ xuất hiện. Thậm chí, nàng còn khát khao được chim thước mách tin chồng nơi phương xa. Để rồi cuối cùng, một mình nàng đối diện với ngọn đèn khuya. Tình cảnh của người chinh phụ quá lẻ loi, đơn chiếc. Ngày thì khắc khoải chờ mong. Đêm dài câm lặng, biết riêng lòng mình:

“Đèn có biết dường bằng chẳng biết

Lòng thiếp riêng bi thiếp mà thôi

Buồn rầu chẳng nói nên lời

Hoa đèn kia với bóng người khá thương”

Lúc đầu, nàng nghĩ may ra chỉ có ngọn đèn biết tâm sự của mình, sau đó, nàng nhận ra rằng nỗi sầu thương vẫn chẳng được san sẻ nên lòng nàng càng đau khổ. Hình ảnh người chinh phụ thầm gieo từng bước ngoài hiên vắng và ngồi một mình với ngọn đèn trong phòng đã cực tả nỗi cô đơn trong tình cảnh lẻ loi.

Bức chân dung người phụ nữ ấy không chỉ gợi lên qua những bước chân, động tác, cử chỉ, qua gương mặt buồn rầu, qua dáng ngồi bất động trước ngọn đèn khuya mà còn nổi bật lên trên nền của không gian và thời gian:

“Gà eo óc gáy sương năm trống

Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên

Khắc giờ đằng đẵng như niên,

Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.

Tiếng gà gáy trong đêm gợi ra khoảng không mênh mông, hiu quạnh, khiến người phụ nữ cô đơn, lẻ loi trở nên nhỏ bé, đáng thương. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh đẩy tâm trạng người chinh phụ lên một nấc thang mới, khiến nó đau đớn hơn, cô độc hơn, dày vò nàng hơn. Không chỉ có tiếng gà gáy khiến nàng trằn trọc, bóng “hòe phất phơ“ cũng khiến người chinh phụ suy tư, lo nghĩ, từ tính từ “phất phơ“ đến động từ “rủ“, tất cả mang sắc thái chán chường, ủ rũ. Ngoài ra, chỉ thêm hai từ láy “dằng dặc” và “đằng đẵng” nhưng sự chán chường, mệt mỏi kéo dài vô vọng của người chinh phụ trở nên thật cụ thể, hữu hình và có cả chiều sâu trong đó. Kể từ khi chinh phu ra đi, một ngày trở nên dài lê thê như cả một năm, những mối lo toan, nỗi buồn sầu như đông đặc, tích tụ đè nặng lên tâm hồn người phụ nữ đáng thương ấy.

“Hương gượng đốt, hồn đà mê mải,

Gương gượng soi, lệ lại châu chan.

Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,

Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.”

Người chinh phụ gắng tìm cách vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô đơn, nhưng rốt cuộc vẫn không thoát nổi. Mùi hương trầm đã vô tình đưa nàng trở về những tháng ngày hạnh phúc trước kia, để tâm hồn nàng lạc đi tìm những kí ức đẹp quá xa vời. Nhưng càng tiếc nuối quá khứ tươi đẹp, nhân vật trữ tình càng thấm thía bi kịch hiện tại; lúc soi gương thì lại không cầm được nước mắt. Cảm thấy việc đốt hương, soi gương không thể giúp quên đi chuyện buồn, người chinh phụ tìm đến tiếng đàn. Tác giả sử dụng một loạt hình ảnh ước lệ như “sắt cầm”, “dây uyên”, “phím loan” tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, cho vợ chồng hòa hợp. Người chinh phụ lo sợ dây đàn đứt, báo điều chẳng lành về cuộc hôn nhân đang bị chia cắt, về người chồng ngoài chiến trường bặt vô âm tín. Điệp từ “gượng” cho thấy sự cố gắng gượng gạo, chán nản ở người chinh phụ, nàng vùng vẫy trong nỗi cô đơn nhưng lại bị chính nỗi cô đơn bóp chặt.

Khi cô đơn bủa vậy, là lúc tâm trạng nhớ thương của người chinh phụ gửi tới chồng ở miền xa lại được dấy lên. Nỗi nhớ thương thật tha thiết:

“Lòng này gửi gió đông có tiện ?

Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.

Non Yên dù chẳng tới miền,

Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.”

Những hình ảnh có tính tượng trưng ước lệ như “gió đông”, “non Yên”, “trời thăm thẳm” vừa gợi ra không gian rộng lớn vô tận nói lên khoảng cách xa xôi giữa chinh phu và chinh phụ vừa biểu đạt được tấm lòng chân thành, nỗi nhớ nhung vô hạn của người vợ nơi quê nhà.

“Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,

Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.

Cảnh buồn người thiết tha lòng,

Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun.”

Chinh phụ nhìn cảnh vật bằng đôi mắt chất chứa buồn thương nên thấy bất cứ cái gì cũng gợi dậy bao nỗi đoạn trường. Trong bức tranh mùa đông được gợi mở, tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh bất ngờ để cực tả nỗi sầu muộn và cảm giác lạnh lẽo trong lòng người phụ nữ:

“Sương như búa bổ mòn gốc liễu

Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô”

Nỗi đau đớn sầu muộn ấy khi thì nặng nề như búa bổ, khi thì nặng nề như cưa xẻ còn “gốc liễu” “cảnh ngô” ấy phải chăng chính là hiện thân của người phụ nữ đang mòn mỏi chờ chồng.

Giọt sương phủ bụi chim gù

Sâu tường kêu vẳng chuông chùa nện khơi”

Tiếng chim gù trong bụi cây sương phủ, tiếng sâu tường kêu vẳng trong đêm sương, tiếng chuông chùa từ xa “nện” lại như những cơn sóng dữ dội, tha thiết và nhức nhối đang cuộn lên trong lòng người phụ nữ ấy. Tất cả những âm thanh như đang xoáy sâu vào tâm hồn, ăn mòn tâm trí của chinh phụ. Trong khung cảnh ấy, tưởng như nàng đã chìm trong vô vọng, nhưng rồi, những khao khát của hạnh phúc lứa đôi bỗng nhiên bừng lên:

“Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc

Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên

Lá màn lay động gió xuyên,

Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm

Hoa đãi nguyệt, nguyệt in một tấm

Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông

Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,

Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiêt đâu”

Chữ thốc rất mạnh trong câu “Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên” báo hiệu sự chuyển sang một tâm trạng mới ở người chinh phụ. Cảnh hoa – nguyệt giao hoà khiến lòng người rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đôi. Bức tranh hoa nguyệt lộng lẫy ấy đã được nhà thơ khắc họa bằng thủ pháp trùng điệp liên hoàn tạo ra những hình ảnh lồng xoáy vào nhau, những lớp hình ảnh giao hòa. Cùng với hình ảnh, âm điệu của lời thơ cũng trở nên tha thiết, nồng nàn như những con sóng của niềm khao khát đang dâng lên trong lòng người chinh phụ. Đến đây, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã đạt đến mức điêu luyện. Có thể nói, đoạn thơ trên đã thể hiện hết sức tế nhị những khao khát thầm kín và mãnh liệt của người chinh phụ – đó cũng là những khát vọng trần thế và nhân bản của con người.

Không chỉ xuất sắc về mặt nội dung, tác phẩm còn là kết tinh của giá trị nghệ thuật đặc sắc. Cụ thể ở đây, bản dịch của Đoàn Thị Điểm đã khéo léo sử dụng hàng loạt từ láy: gà eo óc, hòe phất phơ, khắc giờ đằng đẵng, mối sầu dằng dặc, hồn mê mải, lệ châu chan, trời thăm thẳm, nhớ đau đáu,… Ngoài ra, nhà thơ đã phát huy một cách tài tình nhạc điệu trầm bổng, du dương của thể song thất lục bát giống như những đợt sóng dào dạt diễn tả tâm trạng người chinh phụ hết nhớ lại thương, hết thương lại nhớ trong tình cảnh lẻ loi đơn chiếc.

Xem thêm: Câu Hỏi Kể Tên 3 Nhà Trí Thức Nổi Tiếng Mà Em Biết, Nhà Trí Thức Uyên Bác, Tài Hoa

Dù chỉ là một đoạn trích trong “Chinh phụ ngâm”, nhưng ta có thể cảm nhận được giá trị nhân đạo sâu sắc mà tác giả đã khéo léo truyền tải vào trong tác phẩm. Đó là tư tưởng đòi quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc rất chính đáng của con người.

Phân tích tâm trạng của người chinh phụ trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụGiá trị nội dung và nghệ thuật trong Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

————

Hy vọng rằng với các bài mẫu trên đây, em đã nắm được cách làm bài cảm nhận đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ. Ngoài ra, rất nhiều bài Văn mẫu lớp 10 hay nhất cũng được chúng tôi chọn lọc và thường xuyên cập nhật để phục vụ việc học tập cho các em. Chúc các em luôn học tốt và đạt kết quả cao!